Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Thuốc chữa bệnh nam khoa: Thuốc điều trị xuất tinh sớm


Thuốc chữa bệnh nam khoa điều trị xuất tinh sớm như thuốc gây tê tại chỗ được xem là các biện pháp nội khoa đầu tiên trong lịch sử điều trị bệnh. Tác dụng của thuốc này là làm giảm độ nhạy cảm của quy đầu dương vật. Sau đó rất nhiều thử nghiệm lâm sàng đã được tiến hành và cho biết thuốc gây tê tại chỗ có thể làm tăng thời gian xuất tinh lên 6 - 8 lần.


Thuốc chữa bệnh nam khoa: Thuốc điều trị xuất tinh sớm


1. Định nghĩa Xuất tinh sớm
Theo Hội Y học tình dục thế giới (2008): “Xuất tinh sớm bệnh nam khoa này là một trong các rối loạn tình dục ảnh hưởng tới suc khoe tinh duc được đặc trưng bởi sự xuất tinh sớm trước khi hay ngay sau khi đưa dương vật vào âm đạo và mất khả năng kéo dài thời gian xuất tinh mỗi khi đưa dương vật vào âm đạo. Tình trạng này xảy ra thường xuyên gây nên những tác động không tốt đến người bị bệnh cũng như đối tác của họ như stress, chán nản hay không còn hào hứng với chuyện tình dục”.

Định nghĩa này chỉ giới hạn cho những người nam giới có quan hệ tình dục đều đặn, thường xuyên. 

2. Nguyên nhân xuất tinh sớm

2.1. Nguyên nhân tâm lý 

- Do quá xúc động, hồi hộp mà bản thân không tự kiềm chế nổi.

- Hoàn cảnh khách quan, hoặc ý thức cho rằng quan hệ chỉ nhằm mục đích duy trì nòi giống mà không quan tâm đến khoái cảm cho cả 2 người.

- Sự thất bại trong một vài lần đầu tiên dẫn đến ám ảnh, lo lắng, chán nản, bực bội... lâu dần thành bệnh.

- Một nguyên nhân khác dẫn đến bệnh nam khoa này đang còn tranh cãi đó là việc thủ dâm trước đây gây nhiễu loạn cơ chế xuất tinh. Tuy nhiên vấn đề này đang còn tranh luận vì thực tế có nhiều người có tiền sử thủ dâm nhưng không bị xuất tinh sớm.

2.2. Một số nguyên nhân thực thể khác như

- Quá tăng cảm vùng dương vật.

- Tăng ngưỡng kích thích của thần kinh xung quanh cơ quan xuất tinh cũng làm xuất tinh nhanh hơn.

- Do một số bệnh như: viêm tuyến tiền liệt mạn tính, trĩ, dò hậu môn, tổn thương tủy sống, thiểu năng sinh dục, rối loạn nội tiết…

Sau đây Suckhoe68.com chuyên mục suc khoe va doi song sẽ liệt kê một số loại thuốc chữa bệnh nam khoa  Thuốc điều trị xuất tinh sớm

3. Thuốc chữa bệnh nam khoa: Thuốc điều trị xuất tinh sớm

Có nhiều phương pháp điều trị xuất tinh sớm tùy vào nguyên nhân. Sau đây là các loại thuốc sử dụng trong điều trị xuất tinh sớm. 

Có 3 nhóm thuốc chính đã được nghiên cứu áp dụng vào điều trị

3.1. Thuốc chữa bệnh nam khoa: Thuốc gây tê tại chỗ

Thuốc gây tê tại chỗ được xem là các biện pháp nội khoa đầu tiên trong lịch sử điều trị bệnh. Tác dụng của thuốc chữa bệnh nam khoa điều trị xuất tinh sớm này là làm giảm độ nhạy cảm của quy đầu dương vật. Vào đầu những năm 1943, Bernard Schapiro đã thông báo về tác dụng của các thuốc này đối với việc duy trì và kéo dài thời gian xuất tinh. Sau đó rất nhiều thử nghiệm lâm sàng đã được tiến hành và cho biết thuốc gây tê tại chỗ có thể làm tăng thời gian xuất tinh lên 6 - 8 lần. Các thuốc này là những thuốc được Hội Y học tình dục thế giới thống nhất cho điểm A trong việc ưu tiên lựa chọn các thuốc điều trị xuất tinh sớm.

Tác dụng không mong muốn của các loại thuốc chữa bệnh nam khoa  thuốc gây tê tại chỗ này là làm giảm độ nhạy cảm của quy đầu dương vật và âm đạo. Để loại trừ bớt tác dụng không mong muốn này, có thể sử dụng bao cao su.

3.2. Thuốc chữa bệnh nam khoa: Thuốc chống trầm cảm

Bao gồm các thuốc như chất ức chế monoamine oxidase (MAO), thuốc chống trầm cảm loại ba vòng và sau này là các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs). Trong quá trình theo dõi sự an toàn của các thuốc, người ta thấy rằng một số bệnh nhân bị trầm cảm sau khi dùng thuốc này các triệu chứng trầm cảm cải thiện rõ rệt nhưng lại xuất hiện hiện tượng chậm xuất tinh và nặng hơn là giao hợp không xuất tinh. Điều này đã gây nên sự chú ý của các nhà tình dục học và nam học. Ngay lập tức rất nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu đánh giá tác dụng của các thuốc chống trầm cảm trong việc điều trị xuất tinh sớm ảnh hưởng tới suc khoe tinh duc hay chính là suc khoe va doi song tình dục của nam giới.



Dựa trên các nghiên cứu cơ bản người ta thấy rằng serotonin, loại 5-hydroxytryptamine (5-HT) có tác động lưỡng cực. Điều này có nghĩa là khi nó tác động lên các receptor ở hậu synap trong não, chúng sẽ làm kìm hãm quá trình xuất tinh. Nhưng ngược lại, khi tác động lên các receptor tự động ở sợi trục của thần kinh bản thể (5-HT1A subtype) chúng lại có tác dụng làm cho quá trình xuất tinh xảy ra dễ dàng hơn. Cơ chế điều khiển hoạt động bài tiết của các serotonin (5-HT) là cơ chế điều khiển ngược âm tính. Cơ chế này được bắt đầu từ các kích thích ở các receptor tự động của sợi trục của các dây thần kinh bản thể (5-HT1A) làm giải phóng ra 5-HT, làm cho nồng độ 5-HT tăng lên. Sau khi các receptor của các sợi thần kinh bản thể được kích thích thì tại các đầu tận cùng thần kinh, các receptor tự động (5-HT1B) cũng được hoạt hóa, khi các receptor này được hoạt hóa sẽ làm cho nồng độ của các 5 HT ở synap bị giảm đi. Ngoài ra, một yếu tố khác cũng đóng góp vào quá trình điều khiển hoạt động của 5-HT đó là các protein vận chuyển. Loại protein này nằm trong màng bào tương của các tế bào thần kinh soma, chuyên vận chuyển 5- HT từ đầu tận cùng thần kinh và môi trường ngoại bào về khe synap. 

Cơ chế tác động của các SSRIs là ức chế các protein vận chuyển nói trên, SSRIs làm cho nồng độ 5- HT tích lũy ở khoang dịch ngoại bào tăng lên, điều này làm cho các kích thích của receptor tiền synap, hậu synap và 5-HT tăng lên.

Vào năm 1973, nghiên cứu lâm sàng đầu tiên đánh giá tác dụng của thuốc chữa bệnh nam khoa clomipramine, một loại thuốc chống trầm cảm, trong việc kéo dài thời gian xuất tinh đã được công bố. Sau đó nhiều tác giả khác cũng chứng minh tác dụng của các thuốc SSRIs đối với việc duy trì thời gian xuất tinh.

Tác dụng không mong muốn:  việc sử dụng những thuốc trị bệnh nam khoa việc xuất tinh sớm này hàng ngày, trong thời gian dài có thể gây một số tác dụng không mong muốn như khi điều trị trầm cảm. Gần đây, để giảm bớt tác dụng không mong muốn của  thuốc người ta đã sử dụng thuốc theo nhu cầu nghĩa là chỉ sử dụng khi có quan hệ tình dục. Điều này hạn chế tối đa sự có mặt của thuốc trong cơ thể nên đồng nghĩa với việc các tác dụng không mong muốn của thuốc sẽ giảm đi đảm bảo suc khoe tinh duc của bạn được tốt hơn.

Theo kết quả của các nghiên cứu nói trên thì thời gian xuất tinh tăng lên từ 4-7 lần sau khi dùng các thuốc SSRIs. Dựa trên các nghiên cứu về lâm sàng cũng như tiền lâm sàng, Hội Y học tình dục thế giới cũng đã xếp các thuốc SSRIs vào thang điểm A trong việc lựa chọn thuốc chữa bệnh nam khoa thuôc điều trị xuất tinh sớm.

3.3. Thuốc chữa bệnh nam khoa: Các loại thuốc ức chế men Phosphodiesterase-5

Được biết đến là các thuốc chống rối loạn cương dương, cũng đã được thử nghiệm để điều trị xuất tinh sớm. Một vài nghiên cứu với số người tham gia nghiên cứu còn ít cho thấy các thuốc này cũng có vai trò nhất định trong việc điều trị xuất tinh sớm, đặc biệt là khi phối hợp với các thuốc chống trầm cảm loại SSRIs. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sau lại không khẳng định điều này, đặc biệt là khi phối hợp với các thuốc gây tê tại chỗ. Chính vì chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu về tác dụng của thuốc đối với việc duy trì thời gian xuất tinh nên Hội Y học tình dục thế giới mới chỉ xếp thuốc này vào thang điểm C trong việc lựa chọn thuốc điều trị.

Chú ý: Mọi thắc mắc về suc khoe va doi song tình dục, sức khỏe nam khoa, thuốc bệnh nam khoa .. và bạn muốn được tu van suc khoe thì bạn hãy gọi điện đến tổng đài tu van suc khoe truc tuyen 19008909 để được tư vấn cụ thể và miễn phí hoàn toàn.

Nguồn: Suckhoe68.com

Tin liên quan:

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Viêm gan B: Có cho trẻ bú khi mẹ bị viêm gan B?


Một số bà mẹ hiện khá hoang mang không biết nếu nhiễm viêm gan B (VGSV B) thì có nên sinh con hoặc có thể lây sang thai nhi không…? Các nghiên cứu kết luận, mẹ bị VGSV B vẫn có thể cho con bú nếu như mẹ mang virus không hoạt động.


Viêm gan B: Có cho trẻ bú khi mẹ bị viêm gan B?


Viêm gan B là một nguy cơ đe doạ sức khoẻ cộng đồng. Trong đó ở Việt Nam có tỷ lệ nhiễm siêu vi B lên tới 10-14%. Bệnh nguy hiểm do tính chất diễn biến thầm lặng (80% người bị nhiễm siêu vi không bộc lộ triệu chứng), khả năng lây mạnh (tỷ lệ nhiễm viêm gan B gấp 100 lần siêu vi gây bệnh AIDS). Có thể đột biến gây viêm gan tối cấp dẫn đến tử vong, hậu quả lâu dài và nặng nề (biến chứng xơ gan và ung thư gan). Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm viêm gan B cũng cao tới 10-13%, lây từ mẹ sang con là 44,7%. Đường lây chủ yếu là khi thai nhi đi qua âm đạo, sau khi sinh cho trẻ bú sưã mẹ chỉ có 3-10% lây qua rau thai.

Ảnh hưởng của nhiễm virus viêm gan B ở người mang thai
Người mẹ có thể nhiễm virus viêm gan B trước khi mang thai hoặc trong khi mang thai nhưng phần lớn là nhiễm từ trước. Siêu vi không gây ảnh hưởng xấu cho tiến trình mang thai cũng như bào thai, thai vẫn phát triển tốt và không có nguy cơ dị dạng. Quan trọng là nguy cơ truyền bệnh cho thai nhi, nếu trẻ không được bảo vệ ngay sau khi sinh thì 50% số trẻ này sẽ bị viêm gan mạn và có nguy cơ bị xơ gan lúc trưởng thành. Tỷ lệ bị viêm gan cấp ngay sau sinh là 5-7% mà không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng.

Khả năng truyền bệnh  viêm gan B theo đường mẹ-con trong thời kỳ mang thai:

Thời điểm mẹ mắc bệnh

Tỷ lệ truyền bệnh từ mẹ sang con

3 tháng đầu thai kỳ: 1%

3 tháng giữa thai kỳ: 10%

3 tháng cuối thai kỳ: 67%

Mức độ nhân đôi của siêu vi viêm gan B được xác định bằng xét nghiệm HBeAg huyết thanh, đây là một bằng chứng nguy hiểm của tính lây nhiễm

Phương diện huyết thanh

Tỷ lệ truyền bệnh từ mẹ sang con

HBs Ag (+)/ HBe Ag (+): 90%

HBs Ag (+)/ HBe Ag (-): 10-25%

Hơn 95% trẻ sơ sinh bị nhiễm virus viêm gan B ở giai đoạn chu sinh sẽ tiến triển sang mạn tính do có liên quan đến tình trạng chưa trưởng thành ở hệ thống miễn dịch của trẻ, ngược lại ở tuổi trưởng thành chỉ có 5-7% chuyển sang mạn tính.



Vậy có thể nuôi con bằng sữa mẹ được không?
Vẫn có thể cho con bú mẹ được nếu trẻ được bảo vệ bằng cách tiêm cho trẻ huyết thanh đặc hiệu chống siêu vi B (Ig- AntiB) 100 đơn vị ngay trong phòng đẻ, sau đó tiêm vaccin chống viêm gan B ở những vị trí khác trên cơ thể trẻ sơ sinh theo công thức 3 mũi (ngay sau đẻ, tháng thứ 2 và tháng thứ 3).

HBsAg có trong sữa mẹ nhưng lây truyền chủ yếu là khi trẻ bú thường cắn đầu vú mẹ và làm trầy xước da nên phải điều trị ngay những chỗ trầy xước. Ngoài ra còn điều trị sớm tưa miệng và các chứng đau miệng của trẻ.

Cách phòng bệnh:
- Trước hết làm một xét nghiệm HBsAg trong huyết thanh thai phụ vào tháng thứ 6 của thai kỳ, nếu dương tính (+), đánh giá mức độ truyền bệnh, làm xét nghiệm bổ sung HBeAg hoặc ADN và anti HBe.

- Tốt nhất là tiêm vaccin viêm gan B cho tất cả các phụ nữ có HBsAg âm tính (-) trong huyết thanh trước hoặc trong khi có thai.

Chú ý: Khi bạn bị viêm gan B, bạn đang dự định mang thai hay bạn đã có thai chuẩn bị nuôi con bú, bạn muốn được tu van suc khoe truc tuyen hãy gọi cho tổng đài tu van suc khoe của chúng tôi theo số 19008909 để được tư vấn trực tiếp về bệnh viêm gan B và những lưu ý khi nuôi con bú. Chuyên mục tu vấn suc khoe va doi song của chúng tôi sẽ tư vấn miễn phí cho bạn 24/24h.

Nguồn: Suckhoe68.com

Tin liên quan:

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Tư vấn sức khỏe tình dục: Rối loạn khoái cảm ở phụ nữ, vì sao?

Tư vấn suc khoe tinh duc - Khi người phụ nữ không có khoái cảm và khoái cực thì thường được cho là “lãnh cảm”, thuật ngữ này không chính xác vì nó gợi ra một cảm giác sai lầm về cơ thể nữ - một cơ thể lạnh và không còn đáp ứng. Thật ra chứng rối loạn khoái cảm ở nữ bao gồm một thực tế rộng hơn với nhiều mức độ khó khăn trong sự khởi động tiến trình đáp ứng sinh lý.


Tư vấn suc khoe tinh duc: Rối loạn khoái cảm ở phụ nữ, vì sao?


Nguyên nhân dẫn đến rối loạn khoái cảm ở phụ nữ ảnh hưởng đến suc khoe tinh duc của phụ nữ    
Những tình huống sau đây có thể góp phần gây ra chứng rối loạn về khoái cảm: phụ nữ không có cảm xúc khi cơ thể được vuốt ve, không biểu lộ những đáp ứng khi có kích thích tình dục, đôi khi lại làm cho cơ bắp co cứng chứ không phải là thư giãn. Những vuốt ve không tạo ra cảm giác dễ chịu mà trái lại còn gây ra sự kinh sợ ảnh hưởng đến suc khoe tinh duc của phụ nữ; có thể chấp nhận được giai đoạn vuốt ve nhưng không đạt được khoái cực.       

Trong thực tế, phụ nữ có nhiều vùng phát sinh khoái cảm và có khoảng 25% phụ nữ có thể đạt được khoái cực nhờ có kích thích âm vật.       

Một số phụ nữ trong tâm trạng căng thẳng, stress, khi không thể có khoái cảm, họ có thể phải giả bộ để làm vui lòng bạn tình.       

Tư vấn suc khoe tinh duc - Phụ nữ không thể có khoái cảm tình dục trong điều kiện bình thường phần lớn có liên quan đến những xung đột nội tâm và trong trường hợp này cần liệu pháp tâm lý; nếu lại phối hợp với rối loạn về ham muốn thì cần nghĩ đến nguyên nhân hormon prolactin tiết ra quá nhiều trong máu, tuy hiếm gặp. Ngoài ra rối loạn khoái cảm ở nữ còn do tuyến nội tiết kém hoạt động bẩm sinh, rối loạn bản sắc giới...

Người muốn tình dục trở thành tuyệt vời hay say đắm cần nhiều điều kiện: có chuẩn bị, dành nhiều thời gian cho khúc dạo đầu trước khi có quan hệ tình dục thực sự; trong bối cảnh an toàn, có vai trò chia sẻ của cả 2 người...

Chức năng tình dục cũng sẽ bị ảnh hưởng khi xảy ra những sự cố trong đời sống: khi sinh đẻ, sang chấn tâm lý, xáo trộn nhiều trong đời sống... và nhất là những xung đột nho nhỏ nhưng không được giải quyết và tích lũy dần ảnh hưởng tới suc khoe va doi song của phụ nữ.

Suc khoe tinh duc - Thế nào là lãnh cảm đích  thực?
Nhiều nhà nghiên cứu không thừa nhận loại lãnh cảm này. Họ cho rằng trong thực tế không có người nam giới bị bất lực hoàn toàn thì cũng không có người phụ nữ hoàn toàn lãnh cảm. Ý kiến này được nhiều người đồng tình nhưng dù sao cũng không thể phủ nhận rằng phụ nữ lãnh cảm là một hiện tượng có thực.

       

Ngoài những nguyên nhân lãnh cảm bẩm sinh đích thực, còn có nhiều nguyên nhân lãnh cảm thứ phát hay mắc phải khác như: những cú sốc thể chất và tâm lý. Ví dụ, lần “yêu” đầu tiên, chú rể thô bạo khiến cô dâu sợ “yêu” rồi dần dần dẫn tới rối loạn khoái cảm; những phụ nữ bị cưỡng bức; chấn thương tâm lý cũng có thể dẫn đến hậu quả tạo ra phản xạ  phòng vệ quá mức và không thể lặp lại được đời sống tình dục, suc khoe tinh duc bình thường; sau đẻ, sau nạo thai cũng có khi gặp trạng thái giảm khoái cảm hoặc lãnh cảm ở  những phụ nữ xưa nay vẫn có đời sống tình dục bình thường. Ngoài ra, thủ dâm quá nhiều cũng dẫn tới rối loạn khoái cảm. Lý do là vì trong thói quen tự kích dục, nữ tập trung nhiều vào khu vực phát sinh cảm giác âm vật, trong khi quan hệ tình dục bình thường thì âm đạo và cổ tử cung được tác động nhiều hơn, vì thế người phụ nữ không thể đạt được khoái cực theo cách thông thường. 

Tuy nhiên, thói quen tự kích dục chỉ là nguyên nhân phổ biến chứ không phải là tuyệt đối của chứng lãnh cảm nữ. Những yếu tố tâm lý mà người ta gọi là những tác nhân ức chế tâm lý cũng có vai trò quan trọng gây ra lãnh cảm. Sợ và lo hãi có nhiều loại, ví dụ như sợ có thai - dù có ý thức hay vô thức - cũng ức chế khoái cực. Điều này đặc biệt đúng với nhiều phụ nữ tin tuyệt đối rằng khoái cực là yếu tố chủ yếu gây ra có thai. Nhiều người sợ có thai đến mức chỉ nghĩ đến thai nghén là đã ức chế cung phản xạ dẫn đến khoái cực ảnh hưởng đến suc khoe tinh duc của phụ nữ. Sợ nhiễm bệnh (lao, hoa liễu)  không những ức chế mạnh phụ nữ về khoái cảm mà cả nam giới. Có những phụ nữ không dám bộc lộ ham muốn với bạn tình, xem đó là sự tự hạ thấp. Loại sợ này được các nhà nghiên cứu xem là dấu hiệu của cuộc đấu tranh giữa 2 giới. Vì thế cũng tự huỷ diệt quyền  được hưởng khoái cảm tình dục. Mặc cảm phạm tội, hối hận, muốn tự trừng phạt, mắc bệnh histeria và thần kinh... cũng là những nguyên nhân tâm lý của lãnh cảm. Có thể kể thêm nhiều nguyên nhân tâm lý khác nhưng có lẽ đã đủ để khẳng định rằng phụ nữ lãnh cảm là hiện tượng có thực nhưng rất tiếc những nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này chưa nhiều ảnh hưởng đến suc khoe tinh duc của phụ nữ.       

Chú ý: Nếu bạn có thắc mắc về hiện tượng rối loạn khoái cảm ở phụ nữ và muốn được tu van suc khoe thì bạn hãy gọi điện đến tổng đài 19008909 để nhận được sự tu van suc khoe truc tuyen cụ thể.

BS. Đoàn Hằng (Nguồn SKĐS) - Suckhoe68.com

Tin liên quan:

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Tư vấn nam khoa: Phòng khám nam khoa ở Hà Nội


Nam khoa - Nhiều bạn nam khi có vấn đề về suc khoe tinh duc hoặc sức khỏe sinh sản thường băn khoăn không biết đi khám ở đâu? Dưới đây là những Phòng khám nam khoa địa chỉ khám nam khoa uy tín và chất lượng ở hà nội. 



Tư vấn nam khoa: Phòng khám nam khoa ở Hà Nội

Khi có vấn đề về suc khoe tinh duc hoặc sức khỏe sinh sản bạn hãy đến các trung tâm tư vấn để được tư vấn  miễn phí.

1. Trung tâm Nam học Bệnh viện Việt Đức:

Phòng khám nam khoa địa  chỉ: Phòng khám nam khoa số 51, Khu khám bệnh, 14 Phủ Doãn, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Bệnh nhân đến khám vào các ngày trong tuần, trừ chiều thứ 5
Hoặc liên hệ số điện thoại: 0903.201919

Phòng khám nam khoa Phòng khám nam khoa địa  chỉ: 43 Tràng Thi, Hoàn Kiếm, Hà Nội

 2. Khoa Hiếm muộn - Bệnh viện Phụ sản Trung ương (Viện C):

 Điện thoại: (04) 38259281

3. Khoa Hiếm muộn - Bệnh viện Phụ sản Hà Nội:

Phòng khám nam khoa Phòng khám nam khoa địa  chỉ: Đường La Thành, Hà Nội
Điện thoại: (04) 38343432

4. Khoa Phôi học - Bệnh viện 103:

Phòng khám nam khoa Phòng khám nam khoa địa  chỉ: 111 Phùng Hưng, Hà Đông, Hà Nội

5. Khoa Nam học - Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam:

Phòng khám nam khoa Phòng khám nam khoa địa  chỉ: Số 2, Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội 
Điện thoại: (04) 3382 4929

6. Trung tâm phát triển sức khỏe cộng đồng Ánh Sáng:

Phòng khám nam khoa Phòng khám nam khoa địa chỉ: Tòa nhà số 4, nhà A2, Nguyễn Khánh Toàn, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: (04) 62696269 / (04) 62696262

7. Ngôi nhà Tuổi Trẻ: 

Phòng khám nam khoa Phòng khám nam khoa địa chỉ: Số 5, Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: (04) 35540155



8. Phòng khám nhà hộ sinh A:

Phòng khám nam khoa địa chỉ: 36 Ngô Quyền, Hà Nội
Điện thoại: (04) 38253828

9. Phòng khám nhà hộ sinh Ba Đình: 

Phòng khám nam khoa địa  chỉ: 12 Lê Trực, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: (04) 38452579

10. Phòng khám bệnh viện Tâm Anh:

Phòng khám nam khoa địa  chỉ: 30A Lý Nam Đế, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: (04) 37478526

11.Phòng khám số 1- Bệnh viện Đại học Y (Cạnh cổng trường Đại học Y, gần ngân hàng BIDV)

Số 1 phố Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội

 Lịch khám chữa bệnh:

 Sáng thứ 7 hàng tuần vào giờ hành chính

 Để được phục vụ tốt hơn, bạn nên gọi điện đăng kí trước theo số ĐT : 094- 274-8240 

Nếu bạn cần tu van suc khoe truc tuyen những vấn đề nam khoa hãy gọi điện đến tổng đài tư vấn nam khoa, hay bạn có nhu cầu tư vấn suc khoe va doi song, suc khoe tinh duc bạn hãy gọi điện tới số điện thoại 19080909 để nhận được sự tư vấn suc khoe tinh duc từ phía chúng tôi. Chúc các bạn sức khỏe!

BS. Đoàn Hằng theo Suckhoe68.com

Tin liên quan:

Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

Bệnh viêm gan B và cách điều trị bệnh viêm gan B


Hiện nay có nhiều loại thuốc điều trị viêm gan B mạn. Các thuốc này chia làm 2 nhóm chính, có thể sử dụng điều trị riêng lẻ hay phối hợp. Các thuốc được gọi là điều hoà miễn dịch vì chúng tác động lên hệ thống miễn dịch của cơ thể đối với kháng nguyên của HBV trên bề mặt tế bào gan như Interferon (IFN)...Nhóm thứ 2 được gọi là các thuốc chống virut, thuốc này có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut viêm gan B, ngăn cản hiện tượng nhiễm virut lên các tế bào gan bình thường. Các thuốc này không có ảnh hưởng trực tiếp lên hệ thống điều hoà miễn dịch mà chỉ có ảnh hưởng gián tiếp. 


Bệnh viêm gan B và cách điều trị bệnh viêm gan B


I.Các thuốc điều trị bệnh viêm gan B

+ Interferon
: Có hiệu năng tăng cường khả năng miễn dịch, ngoài ra còn kháng virut. Thuốc bị thủy phân ở đường tiêu hóa nên chỉ dùng đường tiêm. Khi dùng, một số người bệnh có thể gặp các triệu chứng như sốt, rụng tóc, mệt... Tuy nhiên, giá thành của thuốc còn cao, lại phải dùng lâu dài nên nhiều trường hợp không có điều kiện. Vì thế, thuốc tuy rất tốt nhưng ít người bệnh lựa chọn.
- Đối với người lớn: tiêm dưới da 5 triệu đv/24h hoặc 10 triệu đv/lần x 3 lần/tuần.
- Trẻ em: 6 triệu đv/1m2 da x 3 lần/tuần, cao nhất là 10 triệu đv.
Thời gian điều trị bệnh viêm gan B: 16 tuần đối với viêm gan B mạn tính HbeAg (+); 12 tháng đối với viêm gan B mạn tính có HBeAg (-)


+ Lamivudin

Có hiệu năng kháng virut viêm gan B. Khi dùng đủ liệu trình thì dấu hiệu lâm sàng mất đi, ALT trở về bình thường, lượng virut (HBVDNA) giảm, hình ảnh mô học gan cải thiện. Thời gian đạt được mục tiêu này lệ thuộc vào từng người, ít nhất là 1 năm, trung bình 2 năm, có khi kéo dài tới 3 năm, nếu tái phát còn có thể dùng lại. Trước năm 2000, lamivudin được xem là thuốc đầu tay (rẻ tiền, dùng đường uống, tiện lợi). Nhưng hiện nay tỷ lệ kháng lamivudin lên tới 70% (lamivudin bị kháng thuốc theo kiểu gen) nên hiện không được ưa dùng nhiều. Tuy nhiên, cũng có khoảng 20% người bệnh hầu như không bị kháng thuốc. Cần lưu ý điều này để có thể dùng lamivudin cho người có khả năng đáp ứng, nhất là với người kinh tế khó khăn (lamivudin vẫn là thuốc có giá rẻ).

+ Adefovir, entecavi, telbivudin

Thời gian đạt được mục tiêu điều trị ngắn hơn lamivudin. Tỷ lệ kháng thuốc thấp hơn lamivudin và có hiệu quả với những người bệnh đã kháng với lamivudin.

+ Tenofovir

Là thuốc mới nhất được EU (Mỹ) mới cho dùng năm 2008. Qua các nghiên cứu cho thấy tenofovir tốt hơn các thuốc trước đó cả về mức đạt được hiệu quả và chưa bị kháng thuốc chữa bệnh viêm gan B. 

+ Dùng phối hợp thuốc: Mấy năm gần đây, có một số nghiên cứu phối hợp thuốc trong điều trị viêm gan siêu vi B. Phối hợp chất tăng cường miễn dịch (interferon- pegylat) với chất kháng virut (lamivudin) cho kết quả tốt hơn dùng mỗi thứ riêng lẻ, nhưng phối hợp hai chất kháng virut thì cho kết quả không đều. Chẳng hạn dùng lamivudin+ adefovir với người đã bị kháng lamivudin thì tính trên người dùng có 80% có đáp ứng, 80% giảm HBV DNA đến mức không phát hiện được, 84% ALT trở lại bình thường. Sau khi ngừng dùng 3 năm không nhận thấy có sự bùng nổ đảo ngược về virut viêm gan B hay lâm sàng học, không hình thành sự đề kháng kiểu gen, không mất bù trừ ở người xơ gan. Nhưng có trường hợp không cho kết quả tốt hơn. Chẳng hạn: dùng lamivudin+ telbivudin thì tốt hơn dùng riêng lamivudin nhưng lại không tốt hơn dùng riêng telbivudin. Vì sự phối hợp chưa ổn định, hơn nữa làm tăng chi phí điều trị nên các nghiên cứu này chưa áp dụng lâm sàng.



II.Tiêu chuẩn ngừng điều trị

Tải lượng HBV càng cao (số lượng bản sao HBV DNA/1ml máu lớn) thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan càng lớn. Tải lượng HBV là yếu tố tiên đoán độc lập cho sự phát triển xơ gan, ung thư gan. Nồng độ ALT càng cao thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan cũng càng lớn. Vì thế, khi điều trị viêm gan B mạn, cần đưa HBV DNA về dưới ngưỡng và đưa ALT về mức bình thường mới ngừng thuốc (Ngừng điều trị khi đạt mục đích điều trị).

Cụ thể

- Xét nghiệm HBeAg (6 tháng 1 lần) và men gan ALT (3 tháng 1 lần). Nếu HBeAg (+) men ALT bình thường, tiếp tục điều trị.

- Nếu HBeAg (-) men ALT bình thường, xem xét khả năng ngưng thuốc.

Nhưng trước khi quyết định ngừng thuốc cần xét nghiệm anti-HBe và HBV-ADN. Nếu anti HBe dương tính tồn tại kéo dài và HBV-ADN âm tính thì có thể ngừng thuốc. Sau đó 6 tháng đến 1 năm xét nghiệm, kiểm tra lại để sớm phát hiện bệnh tái phát.

Ở các bệnh viện tuyến trên, thường xét nghiệm HBV DNA. Đây là chỉ số cho biết tình trạng sinh sản (nhân đôi tế bào) của virut viêm gan B  HBV DNA (+) chứng tỏ virut đang sinh sôi (khi điều trị HBV DNA thường giảm, lý tưởng là đạt đến mức không còn HBV DNA, nhưng trong thực tế chỉ có thể đạt được mức tối đa, tức là vẫn có thể còn HBV DNA nhưng không còn phát hiện được bằng các phương pháp thông thường). Có lúc HBVDNA chỉ giảm đến một mức nhất định. Ví dụ lúc đầu, HBVDNA = 200.000 bản sao/1ml máu, sau điều trị chỉ còn 300 bản sao/1ml máu thì coi như bệnh đã ổn định, có thể ngừng thuốc. 

Hiện đã có xuất hiện sự kháng thuốc, đặc biệt xuất hiện các chủng kháng thuốc đột biến gen. Khi đã điều trị đủ liệu trình, đạt kết quả, cho ngừng thuốc thì vẫn theo dõi định kỳ để xử lý việc bùng phát virut viêm gan B. Khi bị kháng thuốc, cần chấp nhận một liệu trình khác, không bi quan bỏ mặc vì có thể bột phát nguy hiểm. Không tự ý dùng thuốc cũng như tự ý bỏ dở điều trị, tự ý kéo dài thời gian điều trị.

Trong quá trình điều trị, cần khám và xét nghiệm định kỳ bệnh viêm gan B  Trong trường hợp không hoặc chưa dùng thuốc (trường hợp 2 - 3 - 4) thì cần tự theo dõi chặt chẽ, khi cần phải đi khám để được các bác sĩ tu van suc khoe và được xét nghiệm ngay (trường hợp 3 - 4).

Chú ý: Để biết cách điều trị bệnh viêm gan B bạn hãy gọi điện đến tổng đài tu van suc khoe truc tuyen  9008909 của Suckhoe68.com để bạn có thể được tu van suc khoe va doi song và được tư vấn cụ thể.

Nguồn: Suckhoe68.com

Xem tin liên quan:


Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Sức khỏe tình dục nam giới

Suc khoe tinh duc nam giới trứng rối loạn cường dương là bệnh nam khoa được coi là tình trạng dương vật không có khả năng đạt được độ cương cứng và/ hoặc không duy trì được tình trạng cương cứng để thực hiện trọn vẹn hoạt động tình dục đến khi đạt được cực khoái; còn tình trạng liệt dương thì hiếm gặp hơn nhiều.

>> Tư  vấn sức khỏe tình dục: Vitamin tốt cho chuyện...ấy


Suc khoe tinh duc nam giới

Trong mọi thời gian tồn tại của loài người, khả năng duy trì nòi giống của đàn ông, quyền làm cha được coi là một trong những quà tặng vĩ đại nhất của tự nhiên dành cho họ. Đối với đa số đàn ông, một khả năng tình dục tốt được coi là một trong các chỉ tiêu quan trọng của sự hoàn hảo, của chất lượng cuộc sống.

Đối với đàn ông luôn muốn tăng khả năng tình dục, suc khoe tinh duc khi khả năng tình dục không tốt có lẽ là một trong những chấn thương tinh thần mạnh mẽ nhất, làm tổn thương không chỉ tới cuộc sống của chính họ mà còn đến cả cuộc sống của gia đình họ.

Nhiều nghiên cứu dịch tễ trên thế giới đã khẳng định, hiện nay có 15% các cặp vợ chồng không có khả năng sinh con, trong số đó 40-50% là do những nguyên nhân từ sức khỏe sinh sản nam giới. Những nghiên cứu ở Mỹ cho thấy, trên 50% đàn ông ở độ tuổi trên 40 ở mức độ nào đó có rối loạn về sinh lý, trong số đó chỉ có 10% bệnh nhân có rối loạn cường dương (không đủ độ cương cứng, liệt dương...) có đến thăm khám bác sĩ. Có lẽ nguyên nhân là do sự ngại ngùng xấu hổ, cảm giác bất lực, cảm giác không còn nam tính, một số ít thì không tin vào sự giúp đỡ của bác sĩ...

Theo các số liệu nghiên cứu thì đa số các trường hợp rối loạn sinh lý ở đàn ông là yếu sinh lý - rối loạn cường dương ảnh hưởng đến suc khoe tinh duc nam giới (erectile disfunction).

Rối loạn cường dương sẽ ảnh hưởng tới suc khoe tinh duc của nam giới triệu chứng này được coi là tình trạng dương vật không có khả năng đạt được độ cương cứng và/ hoặc không duy trì được tình trạng cương cứng để thực hiện trọn vẹn hoạt động tình dục đến khi đạt được cực khoái; còn tình trạng liệt dương thì hiếm gặp hơn nhiều.



Nguyên nhân gây ra tình trạng yếu sinh lý rất đa dạng, là những rối loạn khác nhau mà đa phần là những rối loạn ở các cơ quan và hệ thống khác nhau trong cơ thể. Một trong các nguyên nhân phổ biến nhất gây rối loạn cường dương là các bệnh lý về tim mạch.
Gần đây các nhà nam học (nghiên cứu về sức khỏe đàn ông) cho rằng, rối loạn cường dương có thể được coi là một trong những biểu hiện phản ánh tình trạng suc khoe tinh duc không bình thường trong hệ thống tim mạch, và những yếu tố thúc đẩy sự phát triển rối loạn cường dương cũng chính là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của các biến chứng tim mạch trầm trọng như nhồi máu cơ tim, đột qụy.

Để tăng suc khoe tinh duc khả năng tình dục tốt chỉ có được khi chức năng tim mạch trong trạng thái tốt, thành mạch máu khỏe mạnh. Nếu thành mạch bị tổn thương như trong xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, bệnh tiểu đường, nghiện thuốc... một trong các biểu hiện cùng với những biểu hiện khác sẽ là rối loạn cường dương. Vì như chúng ta đã biết, dương vật có hai ống mạch lớn (thể hang) ở hai bên và một thể xốp ở giữa. Lúc cương cứng chính là do máu được dồn đầy về các thể hang này.

Ở những người đàn ông bị một trong các bệnh trên các thành mạch ngày càng trở lên xơ cứng, giảm khả năng đàn hồi và giãn, trong đó có thành của các thể hang này. Đây là nguyên nhân chính làm giảm lượng máu dồn về các ống mạch của dương vật, làm giảm khả năng cương cứng của nó.

Còn tồn tại các nguyên nhân ảnh hưởng tới suc khoe tinh duc không kém phần quan trọng gây rối loạn cường dương đó là trạng thái stress tâm lý và những rối loạn tâm thần. Hệ thống thần kinh đóng vai trò điều hòa điều khiển lên các quá trình trong cơ thể, mà các quá trình (các cơ quan và hệ thống) trong cơ thể là một hệ thống thống nhất. Rối loạn một khâu trong hệ thống sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các khâu khác (các cơ quan và hệ thống khác). Quá trình cương cứng dương vật đặc biệt phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc tâm lý.

Theo ý kiến của các nhà nam học thì rối loạn cường dương có thể được coi là biểu hiện ban đầu (biểu hiện sớm) của bệnh lý mạch máu - xơ vữa động mạch trước khi xuất hiện các biểu hiện rối loạn tuần hoàn trong cơ tim, và y học cho rằng khả năng tình dục bình thường là chỉ tiêu của sức khỏe. Hay nói cách khác, ở những người đàn ông không có vấn đề gì trong việc đạt cực khoái sẽ ít có nguy cơ bị mắc các bệnh tim mạch và các biến chứng của chúng, còn những người đàn ông có bệnh lý tim mạch kết hợp bị rối loạn cường dương sẽ có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim, đột qụy cao.

Tóm lại, những người đàn ông khỏe mạnh muốn duy trì "suc khoe tinh duc" cần phải sống một cuộc sống lành mạnh, từ bỏ các thói quen có hại (hút thuốc, uống rượu); chế độ lao động và nghỉ ngơi khoa học; chế độ dinh dưỡng để duy trì cân nặng ở mức hợp lý, tập luyện các bài tập rèn chức năng tim mạch (rèn sức bền) như đi bộ nhanh, chạy, bơi, đạp xe đạp, tập thường xuyên, tùy sức; kiểm tra sức khỏe định kỳ để khám phá những yếu tố nguy cơ của bệnh lý tim mạch, chẩn đoán sớm tình trạng mãn dục nam để có các biện pháp điều chỉnh.

Còn những đức ông đã có các bệnh lý về tim mạch cần phải thực hiện các chế độ chữa trị (dùng thuốc và không dùng thuốc) để cải thiện suc khoe tinh duc  cải thiện tình trạng của thành mạch, thông qua đó sẽ cải thiện được chất lượng cuộc sống tình dục và "sức khỏe đàn ông".


Chú ý:  Khi bạn có thắc mắc về vấn đề suc khoe tinh duc, các bệnh lý nam khoa hãy gọi điện đến tổng đài tu van suc khoe truc tuyen , tư vấn sức khỏe tình dục 19008909 để nhận được sự tư vấn từ các chuyên gia.

BS. Đoàn Hằng (Suckhoe68.com)

Tin liên quan: 

>> Tư vấn sức khỏe trực tuyến: Ucare Việt
>> Tư vấn nam khoa: Vấn đề vô sinh ở nam giới

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Viêm gan B: Ý nghĩa xét nghiệm viêm gan B


Viêm gan B là bênh truyền nhiễm được quan tâm rất nhiều trong cộng đồng. Sau đây là giải thích ý nghĩa các xét nghiệm viêm gan b các bạn có thể tham khảo.


1. Giải thích các ký tự
HBV : virus viêm gan B 
HBsAg : kháng nguyên bề mặt viêm gan B 
HBeAg : kháng nguyên e viêm gan B 
Anti-HBc : kháng thể của kháng nguyên nhân viêm gan B 
Anti-HBe : kháng thể của kháng nguyên e viêm gan B 
Anti-HBs : kháng thể của kháng nguyên bề mặt viêm gan b 
• Kháng nguyên : là yếu tố xâm nhập gây bệnh ( nhân, vỏ, lông …của virus gây bệnh ). 
• Kháng thể : là yếu tố kháng bệnh mà cơ thể sinh ra nhằm chống lại tác nhân gây bệnh 
• Âm tính : không có = O 
• Dương tính : Có = X



Ý nghĩa xét nghiệm viêm gan b

2. Ý nghĩa của kết quả xét nghiệm viêm gan B
* Trường hợp 1 : 
HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : O 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Chưa từng nhiễm viêm gan B, Cho thấy khả năng dễ nhiễm viêm gan B>>> nên tiêm phòng.

* Trường hợp 2 :

HBsAg : X 
HBeAg : O 
Anti-HBc : O 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Giai đoạn sau của thời kỳ ủ bệnh hoặc giai đoạn rất sớm của nhiễm cấp. Nguy cơ lây nhiễm. 

* Trường hợp 3 :

HBsAg : X 
HBeAg : X 
Anti-HBc : O 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Giai đoạn đầu của nhiễm cấp. Nguy cơ lây nhiễm viêm gan B. 

* Trường hợp 4 :

HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : O 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : X 
---> Có thể cho thấy tiền sử nhiễm với việc biến mất chọn lọc Anti-HBc và Anti-HBe hoặc do chủng ngừa, chủng ngừa thụ động tạm thời bằng HBIG hoặc chủng ngừa chủ động lâu dài bằng vaccin viêm gan b. Không lây nhiễm.

 * Trường hợp 5 :

HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : X 
---> Trường hợp này của bệnh viêm gan b cho thấy tiền sử nhiễm HBV nhưng Anti-HBe không tồn tại dai dẳng hay không thể phát hiện. Miễn dịch đối với các trường hợp nhiễm thứ phát. Không lây nhiễm. 




* Trường hợp 6 :

HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : X 
Anti-HBs : X 
---> Cho thấy tiền sử nhiễm HBV. Miễn dịch đối với các trường hợp nhiễm thứ phát. Không lây nhiễm. 

* Trường hợp 7 :

HBsAg : X 
HBeAg : X 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Nhiễm cấp hoặc mạn. Nguy cơ lây nhiễm cao.

* Trường hợp 8 :

HBsAg : X 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Nhiễm cấp hoặc mạn ; Thời kỳ sau khi HBeAg biến mất nhưng chưa phát hiện được Anti-HBe. Chỉ định theo dõi huyết thanh học. Nguy cơ lây nhiễm.

* Trường hợp 9 :

HBsAg : X 
HBeAg : X 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : X 
Anti-HBs : O 
---> Giai đoạn từ giữa đến cuối của nhiễm cấp hoặc tình trạng người mang mầm bệnh viêm gan B mạn tính. Thời kỳ chuyển đổi huyết thanh từ HBeAg sang Anti-HBe. Chỉ định theo dõi huyết thanh học. Nguy cơ lây nhiễm.

* Trường hợp 10 :

HBsAg : X 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : X 
Anti-HBs : O 
---> Giai đoạn từ giữa đến cuối của nhiễm cấp hoặc tình trạng người mang mầm bệnh mạn tính. Chỉ định theo dõi huyết thanh học. Nguy cơ lây nhiễm.

* Trường hợp 11:

HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Trường hợp này của bệnh viêm gan B thường biểu hiện tình trạng nhiễmtrước đây với việc mất chọn lọc Anti-HBs. Tình trạng này cũng có thể biểu hiện cho giai đoạn của sổ của một đợt nhiễm cấp; nhiễm mạn tính với HBsAg thấp hơn giới hạn có thể phát hiện; hoặc kết quà thử nghiệm có sai sót. Nguy cơ lây nhiễm thấp.

* Trường hợp 12 :

HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : X 
Anti-HBs : O 
---> Trường hợp này có thể biểu hiện cho tình trạng nhiễm mà chưa thể phát hiện Anti-HBs; tình trạng nhiễm trước đây không tồn tại dai dẳng Anti-HBS; hoặc hiếm hơn tình trạng nhiễm hiện tại với HBsAg thấp hơn giới hạn có thể phát hiện. Nguy cơ lây nhiễm thấp.

* Trường hợp 13 :

HBsAg : O 
HBeAg : X 
Anti-HBc : O 
Anti-HBe : O 
Anti-HBs : O 
---> Một trường hợp hiếm gặp phần lớn là do kết quả thử nghiệm sai sót. Chỉ định làm lại thử nghiệm.

* Trường hợp 14:

HBsAg : O 
HBeAg : O 
Anti-HBc : O 
Anti-HBe : X 
Anti-HBs : O 
---> Có thể là sai sót của kết quả thử nghiệm. Nếu Anti-HBe dương tính thật sự, rồi tới Anti-HBc và có thể Anti-HBs cũng dương tính. Chỉ địng làm lại thử nghiệm.

* Trường hợp 15 :

HBsAg : X 
HBeAg : O 
Anti-HBc : X 
Anti-HBe : X 
Anti-HBs : X 
---> Một tình trạng đôi khi gặp phải, cho thấy việc lưu hành các phức hợp miễn dịch của HBsAg với tỉ lệ như nhau nên cả hai có thể được phát hiện; HBsAg và Anti-HBs với các kiểu phụ khác  nhau; hoặc kết quả thử nghiệm Anti-HBs có sai sót. Nguy cơ lây nhiễm bệnh viêm gan b.

Nguồn TH

Chú ý: Khi có những thắc mắc liên quan đến bệnh viêm gan B hãy gọi đến tổng đài  tu van suc khoe truc tuyen, suc khoe va doi song 19008909 để được tư vấn cụ thể.

Tin liên quan: 

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Tác dụng phụ của thuốc trị bệnh tiểu đường


Tiểu đường là bệnh lý thường gặp trong những thập niên gần đây.Vậy cách chữa trị benh tieu duong bằng thuốc và tác dụng phụ của những loại thuốc này là gì?



Tác dụng phụ của thuốc trị benh tieu duong

Bệnh nhân mắc benh tieu duong được chia thành 2 loại:

- Tuýp 1: phụ thuộc insulin.

- Tuýp 2: không phụ thuộc insulin.

Với bệnh nhân tiểu đường túyp 2 (không phụ thuộc insulin) ngoài thuốc cần có một chế độ ăn hợp lý sẽ kiểm soát đường huyết tôt, còn với bệnh nhân tiểu đường tuýp 1( phụ thuộc insulin) thì thuốc như người đồng hành để giúp cải thiện chỉ số đường huyết liệu nó có tác dụng phụ gì không nhất là khi họ phải dùng thuốc lâu dài?

Ngày nay, các nhà khoa học đã sáng chế ra rất nhiều loại thuốc chữa benh tieu duong.

 Thuốc làm tăng nhạy cảm insulin: biguanide (metformin); thiazolidinedione (rosiglitazone, pioglitazone); ức chế men DPP-IV (sitagliptine); đồng phân của GLP-1 (exenatide).

Thuốc gây tăng tiết insulin: Sulphonylurea (glibenclamide; glipizide; gliclazide; glimepiride); Glinide (netiglinide; repaglinide).
Thuốc làm chậm hấp thu đường glucose/chất béo từ ruột: thuốc ức chế men tiếu hóa chất bột-đường alpha glucosidase (acarbose); thuốc ức chế men tiêu mỡ lipase (orlistat).
Insulin: insulin tác dụng nhanh; insulin tác dụng ngắn; insulin tác dụng trung bình; insulin tác dụng chậm; insulin trộn sẵn.
Dù là thuốc nào cũng đều có tác dụng phụ, nhưng với các thuốc điều trị đái tháo đường thường không trầm trọng.

  -  Hạ đường huyết: Tất cả thuốc điều trị benh tieu duong đều làm giảm đường máu  nhưngkhi được dùng không thích hợp ( dùng liều quá cao hoặc bệnh nhân bỏ bữa ăn) có thể gây ra trạng thái hạ đường huyết – nghĩa là đường máu xuống thấp hơn mức bình thường. Nếu không có các biện pháp  thích hợp làm tăng đường máu trở lại (ăn uống thêm chất bột đường), hạ đường huyết nặng có thể dẫn đến mất ý thức và hôn mê. Để tránh bị hạ đường huyết cần lưu ý đến việc tăng liều thuốc từ từ, chia bữa ăn thành nhiều bữa nhỏ giúp tránh tình trạng tăng đường huyết hoặc hạ đường huyêt đột ngột, tránh ăn kiêng quá mức.

 - Dị ứng thuốc: Biểu hiện bằng ban mẩn ngứa trên da, sưng nề mắt và mặt khi gặp những dấu hiệu như vậy người bệnh nên dừng thuốc và quay trở lại với bác sĩ điều trị để được đổi thuốc hoặc thay đổi liều dùng.

 - Rối loạn tiêu hóa: đầy bụng hoặc đi tiêu chảy (metformin – Glucophage). Tác dụng phụ này có thể tránh được khi sử dụng với liều thấp hơn và uống sau khi ăn. Nếu vẫn còn cảm giác đầy bụng và bị tiêu chảy sau khi đã sử dụng đúng theo khuyến cáo, chắc chắn đành phải ngưng uống metformin.Trường hợp bệnh nhân uống acarbose (Glucobay), vì thuốc này làm chậm quá trình tiêu hóa chất bột đường trong lòng ruột, do vậy sẽ có cảm giác đầy chướng bụng. Tác dụng phụ này không gây vấn đề nghiêm trọng lâu dài, nó có thể đỡ hoặc không còn khi giảm liều thuốc (hoặc là ngưng sử dụng thuốc).



 -  Tác dụng phụ trên gan, thận: khi uống sulphonylurea hoặc chất ức chế DPP-IV. Có thể phát hiện dễ dàng bằng xét nghiệm máu đơn giản. Những tác dụng phụ này sẽ hết khi ngưng uống thuốc.

 - Giữ nước và có thể gây tác dụng xấu cho những bệnh nhân suy tim. Do vậy, những thuốc này (rosiglitazone và pioglitazone) không được dùng cho bệnh nhân bị suy giảm chức năng tim.

Để đảm bảo sức khỏe và tránh được tác dụng phụ của thuốc trị benh tieu duong người bệnh cần sử dụng theo đúng khuyến cáo của bác sĩ và kết hợp đi khám định kỳ. Khi kiểm soát đường huyết tốt bệnh nhân sẽ ít bị biến chứng mắt, thận, thần kinh, đái tháo đường. Những biến chứng này của benh tieu duong không những làm giảm tuổi thọ người bệnh mà còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sống của người bệnh đái tháo đường.

Để được tu van suc khoe truc tuyen, suc khoe tinh duc, bệnh viêm gan b, xet nghiem hiv bạn hãy gọi điện đến tổng đài: 19008909

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Tư vấn nam khoa: Vô sinh nam (Kì 2)


Điều trị vô sinh nam hiện nay có rất nhiều phương pháp mở ra nhiều cơ hội mới cho những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn.



Tư vấn nam khoa: Vô sinh nam (Kì 2)

 CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÔ SINH NAM PHỔ BIẾN

Điều trị nội khoa  
Các chỉ định điều trị nội khoa bệnh nam khoa vô sinh nam bao gồm: 
• Bất lực: dùng các thuốc làm tăng cương dương vật (thuốc uống, tiêm, bơm niệu đạo)
• Bất thường về nội tiết: bổ sung nội tiết ngoại sinh
• Thiểu năng tinh trùng không rõ nguyên nhân: Nói chung, rất nhiều thuốc đã được dùng điều trị vô sinh nam với chỉ định này, tuy nhiên hầu hết các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đều không chứng minh được hiệu quả của điều trị nội khoa cho thiểu năng tinh trùng không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, ở nhiều nơi điều trị nội khoa vẫn còn là trị liệu khá phổ biến.

Các thuốc thường được sử dụng để chữa bệnh nam khoa này bao gồm: mesterolone, testolactone, clomiphene citrate, tamoxifen, hCG (Howards, 1995). Gần đây,  FSH cũng được cho thấy là có thể có hiệu quả trong điều trị vô sinh nam do thiểu năng tinh trùng.

Điều trị phẫu thuật
Các chỉ định điều trị gồm
• Lỗ niệu đạo lạc chỗ, hẹp bao qui đầu
• Dãn tĩnh mạch thừng tinh
• Bất lực do tổn thương thực thể: ống hút chân không, dây cột gốc dương vật
• Không có tinh trùng do tắc đường dẫn tinh: đây là phẫu thuật thường được thực hiện để điều trị vô sinh nam. Phẫu thuật thông nối thành công thành công thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chỉ định phẫu thuật, trang bị vi phẫu thuật, tay nghề của phẫu thuật viên vi phẫu. Tuy nhiên, nếu thông nối thành công, kết quả có thai lại phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng là tuổi và khả năng sinh sản của người vợ (Sharlip và cs., 2002).

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Trong sinh lý bình thường phải có đến từ vài chục đến vài trăm triệu tinh trùng được phóng vào âm đạo để đảm bảo có được 1 tinh trùng thụ tinh được noãn. Do đó, nếu số lượng tinh trùng trong mỗi lần xuất tinh bị giảm nhiều thì khả năng có thia sẽ rất thấp hoặc không có. Mục đích của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là tạo điều kiện thuận lợi để quá trình thụ tinh và thụ thai có thể diễn ra với trong điều kiện số lượng và chất lượng tinh trùng bị suy giảm.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để điều trị bệnh nam khoa chứng  bệnh vô sinh nam gồm 3 kỹ thuật chính: bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI), thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI). 

Bơm tinh trùng vào buồng tử cung

Nguyên tắc của kỹ thuật IUI là chọn lọc và cô đặc một thể tích tinh trùng với mật độ cao gồm những tinh trùng có khả năng thụ tinh cao và đặt ở vị trị gần vòi trứng xung quanh thời điêm phóng noãn để tạo điều kiện tối ưu cho quá trình thụ tinh. Để tăng tỉ lệ thành công người ta thường kèm với kích thích buồng trứng bằng thuốc và kiểm soát thời điểm bằng hCG (human chorionic gonadotropin).

Kỹ thuật IUI với tinh trùng sau chuẩn bị (lọc rửa) được thực hiện trên thế giới từ những năm 70 và bắt đầu được áp dụng tại Việt nam từ năm 1995. Đây là kỹ thuật thường được sử dụng cho vô sinh nam do thiểu năng tinh trùng nhẹ.

Số lượng tinh trùng di động tối thiểu đưa vào buồng tử cung để IUI có thể thành công được ghi nhận là 1 triệu. Nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ cho thấy hầu như không có trường hợp nào có thai nếu số lượng tinh trùng di động đưa vào buồng tử cung dưới 2 triệu và tổng số tinh trùng di động tối thiểu trong mẫu tinh dịch ban đầu phải đạt trên 10 triệu (NCM Phương và cs., 2002). Do đó, nói chung hiệu quả của IUI thấp hoặc không có hiệu quả nếu thiểu năng tinh trùng vừa hoặc nặng. Tỉ lệ thành công của một chu kỳ điều trị IUI cho những trường hợp thiểu năng tinh trùng nhẹ thường vào khoảng 10%.

Kỹ thuật IUI còn được áp dụng hiệu quả đối với những trường hợp sau phẫu thuật dãn tĩnh mạch thừng tinh. Ngoài ra, IUI là kỹ thuật được sử dụng trong những trường hợp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người cho (trong những trường hợp chồng hoàn toàn không có tinh trùng).



Thụ tinh trong ống nghiệm
Nguyên tắc của thụ tinh trong ống nghiệm là kích thích buồng trứng để nhiều nang noãn phát triển trong một chu kỳ. Chọc chút nang noãn để lấy noãn ra bên ngoài cơ thể. Cho tinh trùng và noãn tiếp xúc với nhau bên ngoài cơ thể (trong phòng thí nghiệm). Sau đó, phôi được hình thành sẽ được chuyển trở lại buồng tử cung người phụ nữ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để có thể phát triển thành thai bình thường.

Thụ tinh trong ống nghiệm thành công trên thế giới vào năm 1978 và được thực hiện thành công ở việt nam năm 1997. Thụ tinh trong ống nghiệm ban đầu chủ yếu để điều trị các trường hợp tắc vòi trứng. Sau đó, được mở rộng cho nhiều chỉ định khác trong đó có vô sinh nam.

Bình thường cần phải có từ 50.000- 100.000 tinh trùng di động để có thể thực hiện thụ tinh một noãn trong môi trường nhân tạo. Người ta thấy rằng nếu số lượng tinh trùng di động có được sau khi lọc rửa dưới 0,5–1 triệu thì tỉ lệ thụ tinh của noãn khi thực hiện IVF rất thấp, đồng thời tỉ lệ không có thụ tinh hoàn toàn và không có phôi chuyển rất cao. Để có được từ 0,5-1 triệu tinh trùng di động sau lọc rửa, số lượng tinh trùng di động trong mẫu tinh dịch ban đầu phải đạt tối thiểu 5 triệu. Do đó, IVF thường chỉ được áp dụngcho những trường hợp thiểu năng tinh trùng nặng hay thiểu năng tinh trùng nhẹ đã thất bại với nhiều chu kỳ IUI. Tỉ lệ thành công của một chu kỳ IVF cho chỉ định vô sinh nam tại bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ năm 2001 là (NTN Phượng và cs., 2002)

Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI)
Nguyên tắc của kỹ thuật ICSI là tiêm trực tiếp 1 tinh trùng vào bào tương noãn trưởng thành để tạo phôi. Phôi sau đó được chuyển vào tử cung người vợ để có thể đậu thai và phát triển bình thường. Cũng như IVF, trong ICSI người ta cũng thực hiện kích thích nhiều nang noãn phát triển, chọc hút noãn để lấy noãn ra ngoài cơ thể. Với kỹ thuật ICSI, ta chỉ cần 1 tinh trùng sống để có thể thụ tinh noãn, tạo phôi phát triển thành thai.

Kỹ thuật ICSI được xem là một cuộc cách mạng trong điều trị bệnh nam khoa chứng bệnh vô sinh nam. Với kỹ thuật này, người ta đã tạo được sự cân bằng về số lượng giữa giao tử đực (tinh trùng) và giao tử cái (noãn) trong quá trình thụ tinh. Đồng thời, kỹ thuật ICSI còn làm thay đổi một số quan điểm về sinh lý sinh tinh và sinh lý thụ tinh ở người.

Kỹ thuật ICSI được thực hiện thành công trên thế giới vào năm 1993 và thành công ở Việt nam vào năm 1998. Hiện nay, kỹ thuật ICSI có thể áp dụng cho tất cả trường hợp vô sinh do nam giới, trừ những trường hợp hoàn toàn không có sinh tinh. ICSI có thể thực hiện với tinh trùng từ tinh dịch, tinh trùng hút từ mào tinh hay tinh trùng sinh thiết từ tinh hoàn.

Hiện nay, ICSI được xem là phương pháp điều trị vô sinh nam hiệu quả nhất, tỉ lệ có thai của một chu kỳ điều trị thường trên 30%. Hiện nay, tại Bệnh viện Từ Dũ, tỉ lệ thành công của kỹ thuật ICSI với tinh trùng từ tinh dịch là khoảng 35% và với tinh trùng hút từ mào tinh đạt khoảng 50%. Các tỉ lệ này phụ thuộc chủ yếu vào tuổi của người vợ.


Các phẫu thuật lấy và phân lập tinh trùng trong trường hợp vô sinh nam không có tinh trùng
Vô sinh do không có tinh trùng là trường hợp không tìm thấy tinh trùng trong tinh dịch. Không tinh trùng thường chia làm hai loại: do tắc nghẽn và không do tắc nghẽn. Trong trường hợp không tinh trùng do tắc, tinh hoàn vẫn sinh tinh bình thường nhưng tinh trùng không thể ra bên ngoài. Nguyên nhân thường gặp là do bẩm sinh, nhiễm trùng đường sinh dục hoặc do thắt ống dẫn tinh. Trong cả hai trường hợp vô sinh không có tinh trùng do tắc hay không do tắc, người ta đều có thể phẫu thuật để lấy tinh trùng và thực hiện ICSI. Sau đây là các phẫu thuật để lấy tinh trùng thường được thực hiện. 


Lấy tinh trùng từ mào tinh bằng vi phẫu thuật
Là phương pháp thu tinh trùng qua phẫu thuật mào tinh. Bệnh nhân được gây tê tại chỗ và phối hợp với tiền mê. Phẫu thuật viên rạch ngang da bìu phía mào tinh. Cắt màng bao mào tinh, bộc lộ búi ống mào tinh. Dịch hút được từ mào tinh sẽ được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm tinh trùng. Tỷ lệ thành công của MESA trên 90% và tinh trùng thường thu được nhiều và có thể trữ lạnh (Holden và cs., 1997). Tuy nhiên phương pháp này cũng có một số khuyết điểm như tính xâm lấn cao, dịch thu được lẫn nhiều hồng cầu và tình trạng dây dính nhiều sẽ gây khó khăn cho những trường hợp phải phẫu thuật lần sau. Kỹ thuật này chỉ thực hiện với trường hợp không có tinh trùng do tắc.

Lấy tinh trùng từ mào tinh bằng xuyên kim qua da
 Là phương pháp thu tinh trùng mà không cần phẫu thuật mở bao tinh hoàn và bộc lộ mào tinh. Sau khi cố định được mào tinh bằng tay, phẫu thuật viên dùng kim gắn với syringe đâm xuyên qua da vào mào tinh. Hút từ từ tới khi có dịch trong syringe. Dịch hút được sẽ đem kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm tinh trùng. So với MESA, tỷ lệ thành công của PESA thấp hơn (khoảng 65%), nhưng là phương pháp ít xâm lấn, có thể thực hiện được nhiều lần, đơn giản hơn và tinh trùng thu được thường ít lẫn máu và xác tế bào. Do đó, nhiều tác giả đề nghị PESA là phương pháp nên lựa chọn đầu tiên ở những trường hợp không tinh trùng do tắc nghẽn. Kỹ thuật này chỉ thực hiện với trường hợp không có tinh trùng do tắc.


Lấy tinh trùng từ tinh hoàn bằng chọc hút
Sau khi gây tê và cố định tinh hoàn, phẫu thuật viên đâm kim qua da vào mô tinh hoàn và hút từ từ ra mẫu mô. Thường phải hút nhiều mẫu mô ở nhiều vị trí khác nhau. Xé nhỏ mẫu mô và tìm tinh trùng dưới kính hiển vi. Nếu quá trình sinh tinh bình thường, tỷ lệ thu được tinh trùng khoảng 96%. Kỹ thuật này có thể thực hiện cho cả 2 trường hợp không có tinh trùng do tắc hoặc không do tắc.

Lấy tinh trùng từ tinh hoàn bằng phẫu thuật xẻ tinh hoàn
Kỹ thuật này tương tự sinh thiết tinh hoàn. Phẫu thuật bộc lộ tinh hoàn và lấy nhiều mẫu mô tinh hoàn. Các mẫu thu được sẽ được tách nhỏ hoặc sử dụng một số loại men để tăng khả năng thu được tinh trùng từ các ống sinh tinh. Tỷ lệ thu được tinh trùng khoảng 50% đối với các trường hợp không có tinh trùng không do tắc. Kỹ thuật này có thể thực hiện cho cả 2 trường hợp không có tinh trùng do tắc hoặc không do tắc.

Điều trị vô sinh cho những cặp vợ chồng không tinh trùng có thể được thực hiện bằng cách lấy tinh trùng từ mào tinh (MESA, PESA) hay tinh hoàn (TESA, TESE). Điều trị thường phối hợp với kỹ thuật ICSI để tăng tỷ lệ thành công. Tỷ lệ thành công trong điều trị thường cao ở những trường hợp không tinh trùng do tắc nghẽn. Với các kỹ thuật trên, năm 2002, khoa Hiếm muộn bệnh viện Từ Dũ phối hợp với phòng khám Nam khoa bệnh viện Bình Dân, TPHCM. đã điều trị cho hàng trường hợp với tỉ lệ có thai khoảng 40%. Kỹ thuật này mở ra hy vọng mới cho những cặp vợ chồng vô sinh do không có tinh trùng mà trước đây hy vọng có con của họ gần như tuyệt vọng. Tuy nhiên, với trường hợp không có tinh trùng do tinh hoàn giảm chức năng sinh tinh nặng (không do tắc nghẽn), khả năng lấy được tinh trùng thấp hơn, chất lượng tinh trùng kém hơn, tỉ lệ thành công thấp hơn và tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở con sinh ra cao hơn.

Nói chung, đặc điểm của điều trị bệnh nam khoa chứng bệnh vô sinh nam là dù với bất cứ chỉ định và phương pháp nào, kết quả điều trị phụ thuộc rất nhiều và khả năng sinh sản và tuổi của người vợ. Mặt khác, hiệu quả điều trị vô sinh nam khó đánh giá một cách chính xác do thường thể hiện một cách gián tiếp bằng việc có thai của người vợ. Do đó, khi chọn lựa phương pháp điều trị, cần chú ý đến khả năng sinh sản và tuổi của vợ để có sự chọn lựa phù hợp.

Chú ý :  Nếu các bạn có thắc mắc về các phương pháp điều trị vô sinh nam và các bệnh nam khoa hiện nay hãy gọi đến tổng đài 19008909 để nhận được sự tư vấn cụ thể.

BS. Đoàn Hằng (nguồn BV TuDu)   

Xem thêm các bài viết liên quan khác:

>> Tư vấn nam khoa: Vấn đề vô sinh ở nam giới
>> Tư vấn nam khoa: Món ăn tốt cho nam giới có tinh dịch bất thường
>> Tư vấn suc khoe tinh duc: Vitamin tốt cho chuyện... ấy